Thái Hậu Dương Vân Nga Bạch Tuyết

Thái Hậu Dương Vân Nga Bạch Tuyết

Sao Thái dương quang minh lỗi lạc, chủ quý không chủ phú.

Luận giải tình huống Thái dương cung tài bạch

Trong Tử vi, Thái dương chủ tán, thái âm chủ tụ, cho nên thái dương cung tài bạch, trừ phi có thái âm đồng độ, nếu không phải chủ tán tài, mệnh chủ tiền tài xuất nhập lớn, xuất thủ nền nã. Ngoại trừ vậy ứng chú ý tiết lưu bên ngoài, càng phải đi khai sáng tài phú. Nhất định phải một phần cày cấy, mới có một phần thu hoạch, nên phòng là thân thích, bằng hữu hao tổn tài, lợi cho tòng tự công chức, mậu dịch, tư pháp, quân cảnh, chữa bệnh và chăm sóc, công chúng phúc lợi, nghề bảo hiểm. Đa năng đầu tư đưa sinh, cảnh già tốt.

Thái dương vào miếu, bình thường đều chủ tài bạch đẫy đà. Nhưng thái dương bản thân có một đặc tính, tức là thi là được, bởi vì ánh nắng chiếu rọi là thi xuất, thái dương chưa hề hướng mặc cho vật gì thể tiếp thụ qua ánh sáng cùng nhiệt. Bởi vì đồ có cái chủng này bản chất, chỗ lấy thái dương tọa cung tài bạch dù cho người miếu, cũng chủ cả đời gánh vác cực nặng, hoặc bởi vì gánh nặng gia đình, hoặc bởi vì giúp đỡ huynh đệ, bằng hữu thậm chí thuộc hạ, mà bạng châu chi tiêu quá nhiều. Nếu như thái dương lạc hãm, bởi vì thái dương bản thân không phát ánh sáng, cho nên sẽ không giống vào miếu của thái dương như thế có gánh nặng nặng nề, cũng không nếu như có vui hòa hợp dư thi của phẩm cách, thì chủ một đời người phí sức nhọc nhằn, nhưng mà cũng bất quá tài lai tài mất từ đầu đến cuối khó mà tiền để dành.

Thái dương ở Cung tài bạch, cát sát giao tập nhân, mỗi chủ sự nghiệp trống rỗng không thật, mặt ngoài phong quang, mà bên trong tuần truất. Này có tạ hậu thiên nhân sự khuông chánh, nhất định phải cước đạp thực địa, không được lạm dụng danh dự, sau đó bắt đầu có cải biến. Miếu vượng vô hung thần, không sợ cự môn quấn, lúc tuổi còn trẻ thì có tốt tài vận, phú quý, địa vị cao, nhưng tên lớn hơn lợi nhuận. Thêm cát tinh càng là sung túc, sự nghiệp thành công lại thiếu vất vả. Gia tăng xương khúc, tài vận tốt, phú quý có tiếng tên. Gia tăng tả hữu Khôi Việt, có quý nhân trợ giúp mà phú quý. Gặp lộc tồn phú lại quý, thêm cát tinh nắm quyền sở hữu tài sản, nhưng vẫn vất vả. Gia sát kị, phi thường vất vả lãng phí, còn có phân tranh, tài lợi nhuận có bị người khác cướp của khả năng, chi tiêu rất lớn, nhưng vẫn không thiếu tiền sử dụng. Gia tăng không kiếp, bề ngoài phong quang, bên trong trống rỗng, thần tài qua cửa, sáng tác tính kỹ thuật phản cát.

Thất hãm lúc, cầu tài nhiều cạnh tranh, lao lực khó như ý, cả đời vì kim tiền mà bôn ba, tài lai tài mất, chi tiêu lớn, nhưng vẫn không lo thiếu tiền sử dụng. Thêm cát tinh hóa quyền lộc, vất vả làm giàu. Gặp Lộc Mã, thu nhập tiền tài góc suông sẻ, cần kiệm làm giàu. Gia sát kị, cầu tài càng là gian khổ, phân tranh thị phi nhiều, tài lợi nhuận bị người khác cướp, thu nhập thiếu chi tiêu nhiều, nghèo khó. Gia tăng không kiếp, rách nát nghèo khó.

Gặp hóa lộc, càng chủ mình bởi vì sĩ diện mà tán tài, nhưng không thiếu tiền sử dụng. Gặp hóa quyền, miếu vượng phát triển nhanh, bởi vì địa vị lên cao mà phát tài; hãm địa có tiểu phú. Gặp hóa kị, vô luận miếu hãm đồng đều dễ bởi vì tài vụ tranh chấp hoặc lục thân liên lụy mà hao tổn tài; miếu vượng lai tài vất vả, từ cạnh tranh bên trong chiếm được; hãm địa ngoại biểu hiện tốt mà kì thực thường đột nhiên vô kế hoạch của hao tổn tài, mắt tinh của hao tổn, tại cung thân rủi ro lại kéo không rõ, có tranh chấp.

Dưới tình huống bình thường, sát tinh biệt thái dương của ảnh hưởng cũng không như đối với những khác chính diệu trọng yếu. Nói cách khác, thái dương cùng tứ sát không kiếp đồng độ, chỉ có điều gia tăng bối rối cùng tán tài của xu hướng mà thôi, nếu như mệnh cung tinh diệu tổ hợp cát, vẫn không thiếu thu nhập tiền tài chi lực, cũng không bởi vì sát diệu mà bạng châu bần cùng.

Thái dương chủ quý, cho nên thích phải tài tinh, thì phú quý miên xa. Nhưng mà thái dương hóa lộc cũng chủ tán tài, bởi vậy chỉ có lúc gặp lộc tồn, thái âm hóa lộc, cự môn hóa lộc lúc, bắt đầu chủ phú. Thái âm hóa lộc lành nhất, cũng tốt nhất nên kinh thương, đơn kiến lộc tồn thì kém xa gặp lộc mã giao trì. Thích nhất hội chiếu lộc tồn Thiên Mã, thì mặc dù phí sức suy nghĩ, vẫn cũng có thể thành đại phú. Trứ phải Sát Hình Kỵ hao tổn chư diệu, thì làm mà vô công, làm mướn không công; hoặc thậm chí mình đào giếng, khác biệt người uống nước.

Thái dương cung tài bạch, nếu như phu thê cung có tụ tài chi tinh, như thiên đồng hóa lộc, hoặc thiên đồng thái âm bất kỳ một hóa lộc hóa quyền loại hình, thì tài phú nên giao phối ngẫu nhiên xử lý. Nếu cung điền trạch tốt, như tử vi tham lang mà tham lang hóa lộc, thì có tịch trí nghiệp lấy tụ tài. Đây là lợi dụng tinh diệu tính chất, làm hậu thiên bổ cứu.

Cung tài bạch có Thái dương độc tọa tại Tỵ Hợi

Tất cùng cự môn tương đối, cũng nên thị phi khẩu thiệt để cầu tài. Có tham khảo cung Dần Thân thái dương cự môn đồng độ tình hình suy đoán. Riêng chỉ cung hợi thái dương lạc hãm, cực không nên gặp sát kị, nếu không chỉ có thể gian khổ qua ngày, người sinh đêm càng hơn. Cung Tị Hợi thái dương gặp lộc mã giao trì, chủ rời xa nơi sinh để cầu tài. Tại cung tị nhân, gặp cát diệu nhất định có thể giàu có, tại cung hợi nhân, gặp cát diệu chủ được khác phái dìu dắt, riêng chỉ vẫn khó thành phú cục. Cát sát giao tập, thì nhất định phải bằng khẩu thiệt lấy phát tài, nếu gặp khoa văn chư diệu, cũng có thể phú quý. Tị hợi thái dương thích cự môn hóa lộc củng chiếu, thì được người ngoại bang thưởng thức, từ là đề cao địa vị xã hội, tài nguyên cũng bởi đó thông suốt.

Thái Dương chủ về quý không chủ về phú, cho nên Thái Dương thủ cung tài bạch thì tiền tài phải vào địa vị xã hội mà có. Vì vậy cần phải tranh thủ địa vị, như người trong giới học thuật thì phải theo đuổi học vị cao hon; người trong giới kinh doanh làm ăn thì phải làm đại lí cho các thương phẩm nổi tiếng, hoặc tự mình tạo dụng thương hiệu; người làm việc hưởng lương thì phải tích cực nâng cao trình độ để tranh thủ tiếng tăm, hoặc dựa vào quan hệ nhân tế để tạo ra điều kiện thăng tiến.Thái Dương chủ về "tán", Thái Âm chủ về "tụ", nên khi Thái Dương thủ cung tài bạch, trừ phi có Thái Âm đồng độ, nếu không ắt sẽ chủ về "tán tài". Tính chất của "tán tài" có thể do hoàn cảnh, có thể do quan hệ nhân tế bức bách, cũng có thể do tính cách của bản thân. Cần phải xem tổ hợp tinh hệ thực tế mà định.Thông thường, Thái Dương Hóa Lộc, là do bản thân ưa "tán tài"; Thái Dương Hóa Kị, chủ về bị lục thân lợi dụng; Thái Dương Hóa Khoa, thì vì theo đuổi tiếng tăm, vinh dự mà "tán tài". Chỉ có Thái Dương Hóa Quyền là khá ổn định, có thể dựa vào nỗ lực của con người để kiểm soát, khống chế vận trình.Trong các tình huống thông thường, sát tinh ảnh hưởng của Thái Dương chẳng quan trọng như các chính diệu khác. Nói cách khác, Thái Dương có tứ sát và Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, bất quá chỉ làm tăng rối rắm khó xử và tăng xu hướng kiếm tiền của mệnh tạo mà thôi. Nếu tổ hợp sao ở cung mệnh là cát lợi, thì vẫn không thiếu năng lực kiếm tiền, chẳng vì sát tinh mà thành nghèo nàn.Thái Dương nhập miếu, tình hình tốt hơn xa trường hợp lạc hãm. Thái Dương nhập miếu ảnh hưởng đến cung mệnh, địa vị xã hội sẽ cao hơn nhiều so với trường hợp bị ảnh hưởng của Thái Dương lạc hãm. Nhưng Thái Dương ở cung tằi bạch, địa vị xã hội sẽ quyết định việc kiếm được tiền nhiều hay ít. Thái Dương nhập miếu ở cung tài bạch là tối ưu.Thái Dương chủ về quý, nên ưa tụ hội với sao tiền tài, chủ về phú quý dài lâu. Nhưng Thái Dương Hóa Lộc cũng chủ về "tán tài"; do đó chỉ khi nào gặp Lộc Tồn, Thái Âm Hóa Lộc, Cự Môn Hóa Lộc, mới chủ về phú quý, Thái Âm Hóa Lộc là tốt nhất, cũng rất thích hợp kinh doanh làm ăn. Nếu chỉ gặp một minh Lộc Tồn thì thua xa trường hợp gặp "Lộc Mã giao trì".Thái Dương thủ cung tài bạch, nếu cung phu thê có sao tụ tài như Thiên Đồng Hóa Lộc, hoặc "Thiên Đồng, Thái Âm" mà một sao Hóa Lộc và một sao Hóa Quyền, thì tài phú nên giao cho người bạn đời xử lí. Nếu cung điền trạch tốt, như "Tử Vi, Tham Lang" mà Tham Lang Hóa Lộc, thì có thế mua thêm nhà cửa đất đai đế tụ tài. Đây là lợi dụng rinh chất của các sao, biến chúng thành nhân tố hậu thiên để bổ cứu cho vận trình.Thái Dưomg thủ cung tài bạch, có cát tinh và sát tinh lẫn lộn, thường chủ về sự nghiệp trống rỗng, không có thực chất, bề ngoài vẻ vang mà bên trong rối bời. Trường hợp này có thể dùng hành động nỗ lực hậu thiên để sửa chữa, cần phải có hành động thiết thực, không lạm dụng tiếng tăm, mới thay đổi được.Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, ắt sẽ đôi nhau với Thiên Lưomg; Thái Dương ở cung Ngọ ưu hơn ở cung Tí. Do ảnh hưởng của Thiên Lương nên chủ về trắc trở có mức độ rất lớn, vì vậy cần phải dựa vào tiếng tăm địa vị để kiếm tiền. Thái Dương ở cung Tí lạc hãm, bất quá chi chủ về hao tổn tinh thần mà thôi, vì vậy rất thích hợp công tác nghiên cứu học thuật, hoặc làm những nghề nghiệp có tính giải quyết khó khăn (như chuyên trị các chứng nan y, các chứng bệnh nặng, nguy hiểm; hoặc làm những công việc có tính cứu khốn phò nguy), lấy đây làm nguồn tiền tài của mình.Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung tài bạch, có thể thành cách "Dương Lương Xương Lộc", ắt sẽ có địa vị chuyên nghiệp. Có điều, ở cung Ngọ thanh danh sẽ lớn hơn ở cung Tí.Thái Dương ở cung Tí mà gặp các sao sát, kị, không, kiếp, chủ về cực kì hao tổn tinh thần; ở cung Ngọ thì ít hơn nhiều.Thái Dương ở cung Tí mà được cát hóa, có sao cát, tuy cũng chủ về phú quý, nhưng thua xa ở cung Ngọ. Thái Dương ở cung Ngọ, thủ cung tài bạch, nếu người sinh vào ban ngày, lại có cát hóa và sao cát, mà còn gặp sao lộc, sẽ chủ về đã phú còn quý, quyển thế và tài phú đều có tiếng một phương.Thái Dương ở hai cung Tí hoặc Ngọ, thủ cung tài bạch, chi không ưa Thiên Lương Hóa Lộc, chủ về quý mà không chủ về phú, hơi có nhiều lợi lộc liền bị oán trách, đố kị. Ở xã hội hiện đại, cũng chủ về thương hiệu kinh doanh, hoặc nhờ quảng cáo để tạo dựng thương hiệu; gặp các sao khoa văn thì càng đúng. Xét ở phương diện khác, lại có thể chuyển thành chủ về bản thân tự quảng bá, quảng cáo việc kinh doanh của mình."Thái Dương, Thái Âm" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tính chất cơ bản chủ về "tán trước tụ sau", nhất là trường hợp ở cung Sửu, sức mạnh "tụ sau" lớn hơn ở cung Mùi; người sinh vào ban đêm ưu hơn người sinh vào ban ngày. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, mà không gặp các sao sát, kị, chủ về phú mà còn quý. Có điều cần phải tự mình tạo dựng sự nghiệp, tuy có phúc ấm tổ tiên nhưng không được hưởng. Thái Âm Hóa Lộc, phú nhiều hơn quý, Thái Dương Hóa Lộc thì quý nhiều hơn phú. Trường hợp trước ở cung Sửu lợi hơn; trường hợp sau ở cung Mùi ưu hơn."Thái Dương, Thái Âm" thủ cung tài bạch, mà Thái Âm Hóa Kị, chủ về vì khoa trương phù phiếm, vọng động đầu tư mà gây ra tổn thất. Nếu Thái Dương Hóa Kị, thì vì hư danh mà bị gây lụy; gặp các sao sát, hình thì vì vậy mà gây ra thị phi, thậm chí có thể kiện tụng."Thái Dương, Cự Môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân. Thái Dương Hóa Quyền, Cự Môn Hóa Lộc, chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) nâng đỡ mà kiếm được tiền, cũng chủ về "dừng tài ăn nói để kiếm tiền". Không có cát hóa, có "Lộc Mã giao trì" cũng được; Thái Dương Hóa Lộc cũng điềm tượng này; nhưng thường vì tiêu xài sa hoa mà "tán tài".Thái Dương Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, ắt chủ về bị người ta gây lụy; Cự Môn Hóa Kị thì chủ về phạm pháp, kiện tụng; nếu gặp thêm các sao sát, hao, không, kiếp, sẽ vì vậy mà mang nợ, hoặc vỡ nợ, phá sản, sập tiệm. Nếu gặp Cự Môn Hóa Kị mà sát tinh không nặng (chủ yếu là không gặp Địa Không, Địa Kiếp và Linh Tinh), sẽ chủ về "dùng lời nói để kiếm tiền". Ví dụ như làm người môi giới, giáo sư, luật sư, v.v..."Thái Dương, Cự Môn" dù được cát hóa, có sao cát, cũng chủ về tiền bạc do bản thân kiếm được, chứ không nhờ đất đai, nhà cửa lên giá mà có; cũng chủ về cần phải cạnh tranh mới có. Gặp các sao sát, kị thì bị cạnh tranh kịch liệt, phải chịu vất và, bị oán trách để kiếm tiền."Thái Dương, Thiên Lương" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, thành cách "Dương Lương Xương Lộc", chủ về địa vị xã hội quyết định tài phú nhiều hay ít. Nếu gặp Văn Khúc Hóa Khoa, Thái Dương ắt sẽ Hóa Quyền, lại được tá hội Cự Môn Hóa Lộc, thì được quý mà còn phú, quyền lực và tài phú đều khiến cho người ta phải ganh tị. Trường hợp được cát hóa, nếu cung tài bạch của đại vận gặp sao kị, lại có Địa Không, Địa Kiếp hội hợp, thì đại vận này là thời kì túng thiếu tiền bạc. Nếu không gặp tình hình này ở đại vận, mà gặp ở lưu niên thì cũng ứng nghiệm như vậy."Thái Dương, Thiên Lương" ở cung Mão, dù không gặp các sao sát, kị, cũng chủ về tranh chấp tài sản, tranh chấp tiền bạc. Có điều, được cát hóa và có Lộc Tồn, vấn đề tiền bạc sẽ ưu hơn ở cung Dậu."Thái Dương, Thiên Lương" rất kị Địa Không, Địa Kiếp, chủ về trống rỗng, không có thực chất, bề ngoài hào nhoáng mà bên trong túng thiếu. Thái Dương Hóa Lộc hay Hóa Khoa càng nặng hào nhoáng bề ngoài; Thiên Lương Hóa Lộc thì chủ về thầm lo lắng, buồn rầu; nhưng Thái Dương Hóa Quyền thì khá ổn định; Thiên Lương Hóa Khoa thì sang quý thanh cao, thiên về hưởng thụ tinh thần hơn là hưởng thụ vật chất, hưởng thụ vật chât cũng do danh dự mà có.Trường hợp thành cách "Dương Lương Xương Lộc", gặp Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, thường thường là nhân tố phát minh sáng tạo, có thế nhờ đó mà kiếm tiền."Thái Dương, Thiên Lương" thủ cung tài bạch, mà Thái Dương Hóa Kị, chủ về nguồn tiền tài không ổn định, cũng chủ về vì bị người ta gây lụy mà phá tán, thất bại. Nếu hội Thái Âm Hóa Kị ở cung Tị, cũng là điềm tượng phá tán, thất bại; Thái Âm Hóa Kị ở cung Hợi thì trái lại, có thể đột phá hoàn cảnh để kiếm tiền, như đột nhiên tạo dựng được thương hiệu, có đột phá về học thuật.Thái Dương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái Âm, trong các tình huống thông thường, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất; chi trường hợp Thái Âm Hóa Lộc ở cung Tuất là tốt.Thái Dương ở cung Tuất là cục "Nhật Nguyệt phản bối", nếu được cát hóa và có sao cát thì lại thành cách đặc biệt, chủ về trải qua gian khổ mà lập nên sự nghiệp, tiền bạc cũng nhờ đó mà có; lúc còn trẻ thì gian khổ, sau trung niên danh lợi đều lớn.Thái Dương ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Thiên Khôi, Thiên Việt giáp cung, chủ về có người đề bạt, nâng đỡ. Nếu bị Hỏa Tinh, Linh Tinh giáp cung, sẽ chủ về "tài dễ tán mà khó tụ".Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Cự Môn, cũng thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Xin tham khảo đoạn "Thái Dương, Cự Môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân.Trường hợp Thái Dương lạc hãm ở cung Hợi, là rất ngại gặp các sao sát, kị, chủ về sống gian khổ độ nhật, người sinh vào ban ngày càng nặng.Thái Dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp "Lộc Mã giao trì", chủ về rời xa quê hương để kiếm tiền. Trường hợp Thái Dường ở cung Tị mà gặp cát tinh ắt có thể giàu có; Thái Dương ở cung Hợi mà gặp cát tinh thì chủ về được người khác giới giúp đỡ, nhưng vẫn khó thành "phú cục".Thái Dương ở hai cung Tị hoặc Hợi, thủ cung tài bạch, phần nhiều thiên nặng lí tưởng nhưng không đủ tài lực để thực hiện; trường hợp ở cung Tị thì tốt hơn. Nếu có cát tinh và sát tinh lẫn lộn, cần phải dựa vào "dùng lời nói để kiếm tiền". Nếu gặp các sao khoa văn, cũng có thể phú quý.Thái Dương ở hai cung Tị hoặc Hợi, ưa Cự Môn Hóa Lộc vây chiếu, chủ về được người nơi khác (nhất là người ngoại quốc) trọng dụng, nhờ đó mà địa vị xã hội được nâng cao, nguồn tiền tài cũng thông thuận.Theo Trung Châu Tam Hợp Phái - Nguyễn Anh Vũ biên dịch

Bạch Tuyết tên khai sinh là Nguyễn Thị Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là "Cải lương chi bảo". Trước năm 1975, bà kết hợp cùng nghệ sĩ Hùng Cường tạo thành "Cặp sóng thần" cực kì nổi tiếng của sân khấu cải lương thời đó. Bà cũng là Tiến sĩ Nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam tại hai viện hàn lâm Anh quốc và Bulgaria với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á với điều kiện sinh hoạt hiện đại của khán giả thế kỷ thứ 21".

Bà còn viết lời vọng cổ cho các bài tân nhạc với bút danh là Nguyễn Thị Khánh An.[1]

Bà tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Đốc (nay thuộc Khánh An, An Phú), tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.

Mồ côi mẹ khi 9 tuổi (1954), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như Nắng đẹp miền Nam, Làng tôi, Tiếng còi trong sương đêm...

Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, Thanh Nga nói với Bạch Tuyết rằng "Em đi hát đi, chứ mặt em mà đi hát thì em nổi tiếng dữ lắm", lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.

Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền.[2] Nhờ đó, tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này.

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở "Lá thắm chỉ hồng", cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở "Kiếp chồng chung", "Suối mơ rền áo cưới"... Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở "Tiếng hát Muồng Tênh", tên tuổi bà bắt đầu được chú ý.

Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài.[2] Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế để đi học.[2]

Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau, bà đoạt Giải Thanh Tâm cho Diễn viên triển vọng.

Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều – Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở Tần nương thất đã mang lại cho bà Huy chương Vàng giải Thanh Tâm cho Diễn viên xuất sắc. Cũng trong năm này, bà được soạn giả Hoa Phượng và giới báo chí tặng cho danh xưng "Cải lương chi bảo" do sự thành công của vai diễn Lê Thị Trường An trong vở "Tuyệt tình ca". Danh xưng này gắn liền với tên tuổi bà đến tận bây giờ.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành một cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả, được báo chí thời đó phong tặng là "Cặp sóng thần" vì sức hút và độ ăn khách của họ vô cùng mãnh liệt. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.

Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, bà cùng với Hùng Cường mở gánh hát Hùng Cường – Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Cung thương sầu nguyệt hạ... Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.

Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn.

Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia.

Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á" và trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn phát triển văn hóa – văn hóa dân tộc của Trường Đại học Bình Dương, bà đã tổ chức nhiều chương trình sân khấu có giá trị về nghệ thuật dân tộc. Hằng tháng, trung tâm này kết hợp cùng Đài Truyền hình Bình Dương thực hiện chương trình "Chân dung đối thoại" với mục đích phổ biến, đề cao văn hóa nghệ thuật dân tộc.

Luôn đau đáu với sự nghiệp phát triển cải lương, bà ôm ấp kế hoạch xây dựng những "trường ca cải lương" và âm thầm bắt tay vào viết những trường ca chuyển thể từ tác phẩm Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Bút quan hoài (Trần Tuấn Khải),… Hiện tác phẩm chuyển thể Kinh Pháp Cú thành trường ca cải lương của bà với nhiều bài bản dễ nhớ, dễ hát, dễ thuộc đã được tái bản nhiều lần qua hình thức VCD, được khán giả đón nhận và khen ngợi… [3]

Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 (năm 2011).

Những người bà ca diễn chung trong sự nghiệp: Thanh Sang, Phương Quang, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Phượng Liên, Lệ Thủy, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Tuấn, Thanh Tòng, Bảo Quốc, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn... Bà từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với bà để lại ấn tượng sâu sắc nhất vẫn là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi "sóng thần" cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960.[4]

Để kỷ niệm 60 năm gắn bó với sự nghiệp hát cải lương của mình, đầu năm 2021, Bạch Tuyết đã tổ chức Đêm Bạch Tuyết - Gửi người tri kỷ.[5] Đêm nhạc ân tình đó, như chia sẻ của bà, là “món quà” đặc biệt mà “cô Lựu” muốn gửi đến không chỉ những người làm nghề với mình mà quan trọng hơn hết đó là khán giả.

Cùng trong năm đó, Bạch Tuyết là một trong ba gương mặt phụ nữ tiêu biểu được tôn vinh ở cùng một hạng mục vinh danh là nghệ thuật tại Gala Phụ nữ quyền năng 2021.[6] Hai gương mặt còn lại cũng chính là những nghệ sĩ đã có những cống hiến lớn lao trải dài suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật cho đến ngày hôm nay, đó là NSND Kim Cương và NSND Lê Khanh.

Năm 2022, cùng với Hoàng Dũng, ca khúc Về nghe mẹ ru đã đoạt giải TikTok Awards Việt Nam ở hạng mục Âm nhạc của năm.[7][8]

Năm 2023, Bạch Tuyết đã có nhiều hoạt động nghệ thuật đáng chú ý. Bà đã tham gia vai trò ban giám khảo huấn luyện thí sinh trong cuộc thi Chuông vàng vọng cổ lần thứ 18, được tổ chức tại Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, Bạch Tuyết cũng đã thể hiện tài năng diễn xuất trong phim chiếu rạp Biệt đội rất ổn của đạo diễn Tạ Nguyên Hiệp. Vai của "Cải lương chi bảo" Bạch Tuyết đặc biệt, góp phần tạo điểm nhấn cho phim, khi chuyện phim lấy bối cảnh miền Tây, nơi cải lương rất thịnh.[9] Ngày 19 tháng 6 năm 2023, MV Tia sáng cuối cùng do bà hợp tác với ca sĩ, rapper Wowy được ra mắt trên YouTube.[10] Bài hát này đã nhận được nhiều tranh cãi ngay cả người hâm mộ và giới chuyên môn.[11]

Dù đã ở tuổi cao, Bạch Tuyết vẫn tích cực tham gia hoạt động nghệ thuật nhằm lan tỏa và giữ gìn nét đẹp của văn hóa âm nhạc dân gian như cải lương, đến với thế hệ trẻ qua các dự án như: Học viện cải lương[12], Tiếp bước trăm năm[13], Diễn kịch một mình[14], Việt phục[15]...

Bà có rất nhiều vai diễn trên sân khấu cải lương, những vai nổi tiếng của bà: Kiều Nguyệt Nga, Thái hậu Dương Vân Nga, cô Lựu...

Với bút danh: Nguyễn Thị Khánh An

Hơn 300 bài tân cổ do bà tự sáng tác.

Bà từng tìm cách quyên sinh (tự tử) 3 lần nhưng bất thành.

Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc tại chùa Sắc Tứ (Tiền Giang) do Sư bà Thông Huệ quy y. Bà học Thiền với hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ (Thiền phái Trúc Lâm yên tử).

Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Dù ly dị nhưng sau này 2 người vẫn dành cho nhau những lời tốt đẹp.

Sau khi ly dị, cũng trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles – Nguyễn Văn Đức (Charles Đức), một Việt kiều quốc tịch Pháp. Hai người có với nhau 1 người con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang làm việc ở Mỹ. Hiện tại bà có 3 cháu nội trai đang học tập sinh sống tại Mỹ. Riêng bà vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.